T́m Dấu Chân Xưa

 

 


Khi tôi c̣n thơ dại gia-đ́nh tôi giă từ Hà-Nội, di-cư vào Nam. Chiếc phi cơ quân-sự của quân đội Pháp cất cánh từ phi-trường Gia-Lâm vào một buổi sáng trời trong, tôi ngồi nép giữa bố và chú, loay hoay với mấy ḥn bi trong túi quần short. Có tiếng nói ngập ngừng trên hệ thống âm thanh. Tôi ngước đầu hỏi chú:

- ‘Thằng’ Tây nó nói ǵ thế?

Chú trả lời nhẹ nhàng:

- Phi công nói là sẽ bay qua Hà-Nội cho chúng ḿnh nh́n thành phố thân yêu lần cuối cùng.

 

Chú nh́n ra cửa sổ, mắt long lanh, h́nh như có ngấn lệ, và đó là lần cuối cùng chú tôi thấy Hà-Nội. Chú mất mấy năm trước ngày tàn cuộc chiến, và bố tôi cũng qua đời b́nh yên năm 2000 tại California, nhất định không về thăm quê nhà lấy một lần:

- C̣n ǵ nữa đâu mà về.

 

50 năm sau chuyến bay di-cư buồn tôi trở về thành phố xưa. Khi phi cơ sắp đáp xuống Nội-Bài tôi tưởng là tôi sẽ khóc, nhưng không, tôi chỉ một chút thẫn thờ. Có lẽ tôi đă chuẩn bị cho ngày về quá lâu, đă đọc và đă biết nhiều về Hà-Nội bây giờ nên không c̣n cái náo nức của một kẻ đi xa trở về. Hay là tôi đă chai đá,  nước mắt đă khô cạn, không c̣n  cái yếu mềm dễ thương của tuổi thanh xuân?

 

Người anh con ông bác, anh Bính, đón tôi ở phi-trường và đưa tôi về làng để kịp ngày giỗ tổ họ Trần. Thuận-Tốn chỉ cách Hà-Nội hơn 10 cây số mà sao ngày xưa tôi thấy xa vời vợi mỗi lần tôi nghỉ lễ về thăm. Ngày đó …

 

- Bà ơi cháu mới về.

- Cha con đẻ mẹ cái thằng Đài về thăm bà đấy hả?

Bà tôi nói nhưng cũng không ngừng tay vớí những việc lặt vặt trong nhà. Tôi lầu bầu:

- Tên ‘ông’ đếch phải là Đài.

 

Tên tôi là Duy, nhưng có ông Đồng Duy ở làng nên bà tôi kiêng, gọi tôi là thằng ‘Đài’, gần với ‘Đại’ là tên cúng cơm của bố tôi.

 

Không bao giờ tôi đứng lâu một chỗ, thoắt một cái là tôi chạy khắp nhà. Nhà bà tôi rộng mênh mông nhưng sân chỉ toàn gạch để phơi thóc, tường cao đầy gai xương-giồng và trơ trọi một cây đu đủ trước ngơ. Chẳng có ǵ cho tôi nghịch ngợm ngoài cái nhà ‘Tây’ hai từng, nơi bà tôi để cỗ áo quan bằng gỗ vàng tâm  dành cho mai sau. Tôi nhẩy lên nhẩy xuống, dùng cỗ áo quan làm ngựa gỗ măi cũng chán nên có lần đă định cậy nắp quan tài xem thử bên trong có ǵ nhưng không nổi v́ gỗ quá nặng.

 

Tôi hét vang:

- Cháu sang thăm bà ngoại.

 

Bà nội tôi chưa kịp trả lời tôi đă chạy vù ra ngơ ngoài, bẻ một cành tre, quất túi bụi những con chó nhỏ đang sủa ầm ĩ, vạch hàng rào dâm bụt bên hàng xóm, đi tắt qua làng bên, làng Đào-Xuyên, thăm dinh cơ bên ngoại.

 

Tôi thích bên ngoại hơn và thường th́ tôi  ngủ luôn bên ngoại, cho đến khi nào bà nội tôi sai người sang gọi về, v́ nhà bà ngoại có ao cá, có vuờn cây đầy trái và nhất là có Phượng, có Long và có Hoàng là con cậu mợ Chu cho tôi làm bạn chơi đùa.  Phượng lớn hơn tôi 2 tuổi nhưng là vai em nên tôi vẫn gọi xách mé là ‘cái Phượng’ và xưng ‘tớ’, hoặc xưng ‘ông’. Long và tôi gần tuối nhau và cùng học một lớp ngoài Hà-Nội với tôi nên luôn luôn về quê cùng một lần. Hoàng c̣n bé nên là đứa cho tôi sai vặt. Tôi không sợ trời, không sợ đất nhưng lại sợ … giun! Mổi lần đi câu Hoàng phải móc mồi giun vào lưỡi câu cho tôi, và khi tôi câu được con cá rô nào Hoàng phải gỡ dùm v́ tôi vụng-về,  nhiều lần bị nghạnh cá rô đâm chảy máu tay!

 

Cây thị trong vườn lúc nào cũng đầy quả chín thơm ngào ngạt. Phượng nói là có ông thần giữ cây rất thiêng nhưng tôi không tin, trèo lên nhẩy xuống bất cứ lúc nào. Phượng có lần dọa tôi:

- Coi chừng ‘thần’ vật anh chết đó.

Tôi cười:

- Đếch sợ! Đêm qua ‘ông’ đái dưới gốc cây mà có sao đâu.

- Ông ǵ, ông ‘mănh’ th́ có. Tôi mách bà là anh chết đ̣n. 

- Bà hiền khô, có đánh ai bao giờ, mà mai tớ lại về Hà-Nội rồi. 

Phượng rủ rê:

- Tết về nhé.

- Về chứ. Tớ khoái xem đánh đu lắm.

 

Bà ngoại tôi hiền khô nhưng vào năm cải cách ruộng đất cũng bị đuổi ra khỏi nhà, chết với một manh chiếu rách ven đ́nh. Ông anh họ cho biết: 

- Cải táng rồi. Bây giờ mộ cụ ở gần chùa Đào, c̣n bà nội chú th́ chôn ở một thửa ruộng ngập nước nguyên thuộc họ Trần ở gần cầu Vương.

Anh nói thêm:

- May mà có cỗ vàng tâm. 

Tôi chợt nhớ đến cái nhà ‘Tây’ 2 từng:

- Ḿnh về qua nhà một chút được không?

Anh lắc đầu:

- Nhà ấy bây giờ có 5 chủ ở.  Để tôi hỏi lại xem họ có cho ḿnh vào thăm không đă.

- Cây đu đủ c̣n không? Lúc sinh em, mẹ em chôn nhau ở đó.

- Làm ǵ c̣n. Cả cái ao bên cạnh có lần chú ngă xuống gần chết đuối cũng đă lấp mất. Họ xây nhà lên rồi.

 

Mẹ tôi đánh thức chúng tôi dậy sớm hơn thường ngày:

- Dạy ngay đi về quê.

Tôi dụi mắt cằn nhằn:

- Hôm nay thứ Tư, thế không đi học à?

Mẹ bật khóc:

- Việt Minh về làng giết hết cả nhà ḿnh đêm qua rồi, ối giời ơi, thế có khổ không!

 

Tôi lúp xúp chạy theo mẹ ra bến xe về thẳng bên ngoại. Bà tôi mắt đă ḷa, ngồi dấu mặt trong ṿng tay giữa nhà, chốc chốc lại ngẩng lên hỏi:

- Chu đâu, Quỳ đâu?

Mợ tôi khóc ngất:

- Nhà con chết rồi. Cả anh Quỳ và chị Gái cũng bị họ chém chết ở ngoài sân. Ối giời cao đất dầy ơi.

 

Thấy Long đứng dựa tường khóc thút thít, tôi lại gần vỗ vai:

- Đ. M. Việt Minh ác quá, bao giờ lớn ḿnh đi lính về bắn chết cả ḷ nhà chúng nó!

Long nghiến răng:

- Ừ, Đ. M. cả ḷ nhà chúng nó!

 

- Thế c̣n mộ cậu Long ở đâu?

- Cũng ở gần bên bà ngoại. Cậu ấy mới mất đây thôi. Tưởng là chết trong những năm đói kém sau khi Việt Minh tiếp thu. Giá năm 54 cậu ấy đi Nam với chú th́ hay biết bao. 

- Em cũng nghĩ thế, nhưng cậu em mất rồi, bà ngọai em không đành xa cháu đích tôn. Cái tội ‘địa-chủ’ gia-đ́nh bên ngoại em phải trả nặng quá. Bên nội ḿnh th́ may hơn v́ di cư hết vào Nam, trừ bà em, và cũng may bà em mất trước khi cải cách ruộng đất.

 

Con đường quê bằng gạch đỏ bây giờ đă được trải nhựa nhưng vẫn gồ ghề, nhỏ bé, quanh co và hôi mùi cống rănh. Tôi cố gắng t́m một h́nh ảnh quen thuộc thủa nào:

- Có phải chỗ này là cổng làng xưa không? Sao không thấy cây đa và ao sen?

Anh Bính cười:

- C̣n được cái đ́nh là may lắm rồi. Mà tôi đố chú t́m thấy lũy tre hay  cây tre nữa đấy.

Tôi bàng hoàng:

- Thế th́ c̣n ǵ là làng!

Anh thở dài:

- Chú đi nhanh lên. Họ hàng đang chờ chú ở nhà thờ tổ họ Trần.

 

Tôi chỉ nghe biết về nhà thờ tổ họ Trần nhưng tôi chưa bao-giờ  lai văng đến trong thời ấu thơ. Có lẽ tôi không thể nào t́m đến được nếu không có anh Bính dẫn qua những con đường quanh co và những ngơ hẹp. Căn nhà cũ kỹ và khiêm tốn nhưng đầy tiếng cười trong một ngày mà mọi người chờ đợi đă bao nhiêu năm. Có người nắm tay tôi:

- Nhớ anh là ai không?

Tôi cười lắc đầu. Anh vuốt tóc tôi, mái tóc đă ngả màu muối tiêu:

- Ngày xưa tôi cơng chú tản cư tuốt vào đến tận Hưng-Yên, nhớ rồi chứ?

Tôi reo lên:

- À em nhớ rồi! Anh Khiêm!

Anh cười, hàm răng đă xô lệch:

- Hơn 50 năm rồi. Ngày nào chú c̣n bé tí.

 

Vâng ngày nào tôi c̣n bé tí. Tôi đă bỏ làng, bỏ quê, đă đi xa, rất xa, và bây giờ tôi trở về, ngỡ ngàng như một người xa lạ. Tôi nghe những lời chào hỏi vang dội như từ cơi xa mù … nhớ tôi không … nhớ tôi không … nhưng tôi không c̣n nhận được một người nào trong đám đông vây quanh. Anh Bính ǵới thiệu tôi với người trưởng tộc họ Trần:

- Đây là anh San, con bác Chánh Hoàn. Anh bây giờ là trưởng chi ḍng họ.

Anh đă già, có lẽ hơn 80, và tôi chưa bao giờ gặp anh trong đời. Anh nắm vai tôi và xiết chặt bàn tay:

- Khi chú mới biết nói th́ anh đă đi kháng chiến. Chú lớn lên, theo gia-đ́nh vào Nam, thế là anh em ḿnh ở hai chiến tuyến. May mà có ngày nay, anh em gặp nhau dưới mái nhà thờ tổ chứ không phải ở ngoài mặt trận.

Tôi nh́n chiếc áo cán bộ đă bạc màu của anh:

- Em nghe nhiều về  cách mạng mùa thu năm 1945, về chiến dịch ‘tây tiến’, về chiến thắng sông Lô, và nhiều huyền thoại khác nữa. Anh ra đi vào những ngày đầu tiên của thời kỳ huyền hoặc đó. Lúc nào anh phải kể cho em nghe.

Anh cười buồn:

- Đúng là huyền thọai. Anh em ḿnh sẽ c̣n có nhiều dịp hàn huyên. Bây giờ th́ hăy vào lễ tổ với anh.

 

Tôi nh́n lên bàn thờ, có bài vị của những tiền nhân tôi không bao giờ biết mặt, có cả h́nh của bà nội và h́nh bố tôi. Cầm bó nhang cúi lạy bàn thờ nước mắt tôi trào ra và ḷng bao bâng khuâng xót xa. Cuối cùng th́ tôi cũng đă  khóc! Tôi nói thầm:

- Bà ơi, thằng Đài đă về.

 

Vài tháng trước ngày bố tôi qua đời,  sáng nào ông cũng  cuốn bộ quần áo bằng tờ báo cũ, cắp dưới nách, ra cửa đứng ngoài cửa:

- Gọi cho bố cái xích-lô ra bến xe về Thuận-Tốn.

 

Khi được chúng tôi nhắc nhở đây là California chứ không phải Hà-Nội, bố tôi có vẻ thẫn-thờ, như không tin. Tôi ước ǵ bố tôi c̣n sống, về lại làng xưa cùng với tôi lúc này. Tôi nhủ thầm:

- Chiều ra thăm mộ bà nội, rồi về bên ngoại. Vườn cây và ao cá không c̣n, nhưng c̣n nền nhà cũ. Cây thị không c̣n, nhưng biết đâu ông thần cũ c̣n quanh quất đâu đây. Ngày xưa ông thương t́nh thằng bé ngỗ nghịch, không vật cho ḿnh ốm, nên biết đâu ông chẳng chờ ḿnh về? Ǵ th́ cũng phải viếng thăm mộ các em Long và Phượng. Tớ về đây này mà các đằng ấy ‘đếch’ chờ. Tại tớ đi lâu quá chứ ǵ?

 

- Duy!

Tôi giật ḿnh, lếch thếch cầm tập vở lên tŕnh thầy Khang, khoanh tay đọc bài Việt-Sử học thuộc ḷng. Giọng tôi ê a nhát gừng làm thầy bực ḿnh:

- Đọc nhanh lên. Nếu không thuộc bài th́ ch́a tay ra đây.

 

Tôi ch́a tay ra. Thày Khang mím môi, quất cái thước kẻ vào ḷng bàn tay. Tôi xuưt soa, rụt tay lại. Thày trừng mắt:

- Tại sao lại không thuộc bài? Ở nhà làm  ǵ mà không học?

Tôi mếu máo nhưng mắt ráo hoảnh:

- Thưa thầy … con quên.

 

Tường thế là yên, nhưng thầy Khang vẫn chưa tha. Thầy mở tập vở xem bài tôi chép, thấy nét chữ đều đặn thay v́  nguyệch ngoạc như tôi thường viết, thầy cau mặt:

- Đứa nào chép bài hộ thế này?

Tôi cúi đầu không đáp. Thầy hét lớn:

- Đứa nào? Nói! Muốn chết đ̣n phải không!

Tôi đành thú nhận:

- Thưa thầy … Long.

- À thằng Long. Đem cái tay lên đây.

 

Tôi được trời phú cho bộ óc nhanh nhẹn nhưng lại thiếu cần cù. Toán “ṿi nước chầy ra, ṿi nước chảy vào” của năm lớp Nhất tôi chỉ ‘ngoáy’ một phát là xong trong lúc Long c̣n cắn bút. Ngược lại Long rất chăm chỉ, chữ đẹp nên mỗi lần chỉ Long làm toán xong tôi lại được Long đền ơn, chép dùm những bài học thuộc ḷng thầy Khang viết trên bảng mà tôi ‘quên’ không chép vào vở v́ c̣n bận với những tṛ chơi tôi mới nghĩ ra hay vừa thu-thập được. 

 

Cả tôi và Long đều bị qú sau bảng đen. Qú th́ tôi ‘cóc’ sợ, nhất là lại có một đứa khác bị qú chung với  tôi để cho tôi chọc ghẹo. Tôi chỉ sợ nhất là bị thầy Khang bắt lên ngồi bàn nhất, chung với đám con gái, để cho thầy dễ thấy và tôi hết nghịch. Long th́ khác hẳn,  mắt đỏ hoe, cúi đầu không dám nh́n lên. Tôi th́ thầm:

- Đau không?

Long xoa tay, gật đầu không nói. Tôi tḥ tay vào túi quần, móc ḥn bi xanh biếc mà tôi vừa mua trong giờ ra chơi dúi vào tay Long:

- ’Chiến’ lắm. Cầm lấy đi.

 

Tôi cắm nén nhang trên đầu mộ Long, khấn thầm, và cũng như nhắn nhủ chính ḿnh:

- Không có ḥn bi nào cho Long lần này. Nhưng không ḥn bi nào đẹp bằng ḥn bi năm xưa đó đâu. Mai về Hà-Nội ḿnh phải đi lại con đường cũ, con đường từ phố Phan Bội Châu, qua Trần Hưng Đạo, tới Quang Trung và trường tiểu-học mà chúng ḿnh đă đi suốt một thời niên thiếu.  C̣n Cổ-Ngư, Nghi Tàm và Quảng Bá nữa chứ.  Chúng ḿnh đă để lại bao dấu chân. Đường xưa đă mất tên và dấu chân xưa không c̣n nhưng hồn xưa vẫn lăng đăng. Ừ mai ḿnh về, dù ‘lối cũ ta về h́nh như nhỏ lại’ …

 

o0o

 

Bao nhiêu năm qua tôi khắc khoải muốn trở về, ít ra th́ cũng một lần, để thăm lại thành phố cũ, căn nhà xưa nơi mà anh em tôi trải qua thời ấu thơ. Khi tôi về Hà-Nội đă thay đổi nhiều, quá nhiều. Hà-Nội không c̣n là Hà-Nội của tôi trong tâm tưởng. Thế nhưng c̣n căn nhà xưa? Tôi đứng tần ngần trước biệt thự số 32 phố Phan Bội Châu. Vẫn căn nhà đó, vẫn mầu vôi vàng cũ kỹ, nhưng không c̣n cây ngọc-lan trước ngơ, không c̣n vuờn cỏ xanh và hàng sấu già vang tiếng ve sầu mùa hạ.

 

Người đàn-bà trung niên bước ra. Tôi ngập ngừng:

- Chị cho hỏi thăm …

Chị nh́n tôi, như ḍ xét:

- Anh t́m ai?

- Không. Ngày xưa tôi ở căn nhà này. Lâu lắm rồi. Nếu chị cho phép, tôi chỉ muốn nh́n lại chốn cũ.

- Thế anh là …

- Tên tôi là là Duy, c̣n đây là chú Thành, em tôi. Chúng tôi đă sang Hoa-Kỳ cư ngụ mấy chục năm nay, và bây giờ mới có dịp về thăm lại quê nhà.

Người đàn bà nói như reo:

- Thế anh là con bác Đức-Khánh trước năm 54 ở căn nhà này. Chúng em vẫn nghe nói về bác luôn.

Rồi như để trả lời cho vẻ ngạc nhiên của chúng tôi chị giải thích:

- Em là Phụng, con dâu ông Mậu. Khi hai bác di cư vào Nam đă nhường lại căn nhà này cho bố chồng em.

 

Tôi như chút được một gánh nặng trên vai và một chút vui thích khi bắt được giọng nói Hà-Nội cũ, Hà-Nội trước năm 1954, thay v́ giọng nói có pha chút âm hưởng vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh như bây giờ:

- May quá, không ngờ gập được người quen.

Phụng cười thân thiện, mở rộng cánh cửa:

- Vâng, thật là có duyên gặp được các anh. Mời hai anh vào chơi, ḿnh ơi, anh Đạo ơi. Nhà có khách.

 

Tôi bàng hoàng bước vào căn nhà cũ. Đạo tiếp chúng tôi niềm nở, tươi cười dẫn chúng tôi đi lang thang khắp nhà. Chỗ này ngày xưa mẹ hay nằm hát ru các em tôi. Pḥng kia kê bộ phản chân quỳ bác Chánh tôi nằm hút thuốc phiện mỗi lần từ quê ra thăm.  Cái tủ áo ở góc này, tôi trốn trong đó cho Long, cho Sĩ đi t́m hàng nửa ngày.  Cầu thang bằng đá lên tầng trên vẫn nhẵn bóng và trơn trượt.

 

Tôi bước ra hành lang. Hành lang có mái che ngày xưa kê chiếc bàn dài cho  anh em chúng tôi ngồi học.  Họ hàng từ quê ra trọ học tại nhà tôi rất đông.  Ngày đó anh Thế học trung-học Nguyền-Trăi, anh Dân học Albert Sarraut, chị Lành học Trương Vương … ngày đó tôi nghe ‘This is Jack. Jack is a boy …’ anh Lương đọc từ cuốn sách b́a cứng mầu xanh nước biển với tấm ḷng khâm phục. Cũng ở nơi đó tôi nghe cô Minh dạy chú Quán phát âm ‘Ông Lư có cái lọ treo lủng lẳng lưng chừng nhà’, chả là v́ dân miền quê tôi nói ngọng, không phân biệt được ‘en nờ’ với ‘e lờ’.

 

Tôi chỉ cho chú Thành:

- Góc này là chỗ bố bắt tôi qú mổi lần tôi ‘lỡ tay’ bắn súng cao-su làm vỡ kính nhà ‘thằng’ Tây hàng xóm. Ngày đó chú c̣n bé lắm nên không bao giờ bị đ̣n, nhưng chú hay khóc nhè nên có biệt danh là ‘C̣ Nhăn’.

Chú Thành cười, chỉ một bức tường:

- Nhưng em cũng c̣n nhớ chỗ này có cánh cửa cầu thang riêng dẫn xuống pḥng mẹ. Sao bây giờ không c̣n?

Anh Đạo giải thích:

- Căn nhà rộng.  Bố mẹ em đă qua đời, nhưng tất cả các anh em chúng em vẫn c̣n sống chung nơi đây. Từ ngày lập gia-đ́nh  chúng em đă ngăn chia  căn nhà  ra làm nhiều phần và xây cất thêm cho có chút ít riêng tư. Những cây sấu già cũng đă được cưa đi, sân cỏ ngày xưa như các anh thấy bây giờ là những quán hàng để kiếm sống. Biệt thự ngày đó bây giờ chỉ là một đám nhà hỗn tạp. Chắc các anh  không c̣n t́m thấy nhiều dấu vết cũ?

Tôi nắm tay Đạo:

- Cám ơn anh đă cho chúng tôi thăm lại căn nhà xưa. Lẽ dĩ nhiên là ‘vật đổi sao dời’ nhưng chúng tôi thấy như sống lại ngày tháng cũ và những kỷ niệm xa xưa thật êm đềm. Xin anh cho phép chúng tôi chụp mấy tấm h́nh để cho mẹ tôi thấy lại căn nhà này, và cho các con tôi thấy được một phần thời thơ ấu của chúng tôi.

 

Giă-từ Đạo chúng tôi chậm chạp đi lại con đường trước đây dẫn chúng tôi tới trường. 50 năm là một khoảng đời nhưng những góc phố vẫn không quên. Tôi chỉ cho chú Thành căn nhà ở góc đường Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu:

- Chỗ này là trường mẫu-giáo của chú. Ngày đầu tiên chú tới trường tôi phải đứng ngoài cửa sổ cho tới khi chú thôi khóc. Trường học không c̣n nữa, nhưng chiếc cổng sắt h́nh như vẫn là chiếc này.

 

Tiếp tục đi trên con đường Trần Hưng Đạo, tôi nói như là đang trong giấc mơ:

- Góc này là ‘Đấu Xảo’ chứ không phải là ‘Cung Thiếu Nhi’ như bây giờ đâu, phía trái là chùa Quán Sứ, phía trước là ngă tư Quang-Trung - Trần Hưng Đạo. Chỗ này có cây muỗn, nhưng nay không c̣n. Chú biết cây muỗm là cây ǵ không? Quả nó giống quả xoài nhưng cây cao lớn hơn nhiều. Những hôm trời nắng tôi vẫn ngồi nghỉ dưới gốc cây trước khi vào lớp. Mà đường phố ngày xưa vắng lắm, ít xe hơi và không có xe gắn máy, nhiều lúc tôi cứ đi giữa đường.

Chú Thành nhắc tôi:

- Anh đi lên vỉa hè không xe Honda cán gẫy gị bây giờ!

Tôi h́nh như ra khỏi cơn mê. Tiếng c̣i xe ‘tin .. tin ..’ thúc giục không ngừng, thay thế tiếng ve sầu trên những cây sấu già. Tôi lại như ch́m vào dĩ văng:

- Sấu chín ngọt lắm. Sấu xanh dầm nước mắm đường cũng ‘tuyệt cú mèo’. Hồi đó chú c̣n bé nên không được ăn, bây giờ đi gần hết Hà-Nội mà vẫn chưa thấy cây sấu nào. 

 

Tôi đứng nép vào cổng trường, cố nh́n rơ bên trong. Nhiều ṭa nhà hai từng mới xây, bề thế hơn dăy nhà ngói cũ nơi tôi mài đũng quần suốt 5 năm tiểu-học. Sân trường không c̣n nữa và lẽ dĩ nhiên những cây bàng với những chiếc lá to đỏ ối vào mùa thu cũng đă không c̣n. Như trong hơi sương tôi thấy thầy Huệ mặc áo dài đen, cô Hạnh quàng khăn san, và thầy Khang mang kính trắng đang đi lại trong hành lang. Tôi dụi mắt, hỏi thầm không biết thầy cô cũ bây giờ ở đâu. Tôi nhớ cô Hạnh hiền, không đánh tôi v́ tôi vật nhau với thằng Vinh ngoài sân trường mà c̣n dẫn tôi ra ṿi nước rửa tay. Tôi cũng nhớ thầy Khang. Tôi nghĩ thầy ghét tôi v́ tôi hay nghịch thế nhưng ngày cuối niên học năm đó lần đầu tiên thầy gọi tôi bằng con và xoa đầu tôi:

- Con chịu khó học, đừng lêu lổng nữa nhé.

 

Không biết tại sao lúc đó tôi bỗng ứa nước mắt. Có bao giờ tôi khóc đâu dù thầy đă từng đánh tôi hàng trăm thước kẻ mỗi lần tôi chọc phá bạn bè trong lớp hay không thuộc bài! Ngày đó là ngày chia tay và năm đó cũng là năm cuối cùng ở Hà-Nội, trước khi gia-đ́nh tôi theo đoàn người di-cư vào Nam mùa thu năm 54. Chắc thầy Khang ở lại miền Bắc và nghĩ rằng chẳng bao giờ gặp lại đám học tṛ nhỏ của ḿnh.

 

Chú Thành nhắc tôi:

- Thôi, đi anh.

Tôi lặng lẽ rời cổng trường. Có lẽ đây là lần cuối cùng tôi nh́n lại mái trường xưa.  Buổi chiều đă nhạt nắng, chúng tôi trở về khách sạn rủ mọi người đi ăn bánh tôm Cổ Ngư. Anh em tôi gồm 8 người từ Mỹ trở về, và vài đứa cháu từ Đà Lạt ra, chỉ có tôi và chị Cúc là biết nhiều về Hà-Nội, hay đúng hơn, Hà-Nội ngày xưa của chúng tôi.

Đứa cháu hỏi:

- Cổ Ngư là đường nào?

B́nh là ‘dân’ Đà-Lạt, quê hương thứ hai của tôi sau khi chúng tôi di-cư vào Nam, nên chưa bao giờ nghe tên con đường thơ mộng đó. Tôi cười:

- Là con đường giữa hồ Trúc-Bạch và hồ Tây. Con đường đó dân Hà-Nôi ai cũng biết. Nổi tiếng như ‘Con Đường Mang Tên Em’ từ hồ Xuân-Hương lên viện đại-học Đà-Lạt của cháu đó.

B́nh ḍ ngón tay trên bản đồ:

- Ứ ừ … Đó là đường ‘Thanh Niên’.

Tôi thở dài:

- Lại một con đường nữa mất tên. Cháu biết không, hôm qua cậu bị một ông lái taxi mắng là “mấy bố Việt-Kiều cứ hỏi tên đường cũ th́ đến ông nội con cũng không biết”. Biết vậy, nhưng tên những con đường cũ khó quên.

Tôi ngừng một chút trước khi nói tiếp:

- Kể cháu nghe, có lần cậu nhờ taxi chở đi ‘Văn Quân’ may quần áo , người lái xe cho biết nhà may đó ở đường ‘Trần-Phú’. Cậu buột miệng:  “Trần Phú là thằng nào”? Anh ta dằn giọng:  “May cho ông tôi không phải là công an”.

B́nh cười nghiêng ngả:

- Tổng Bí Thư đầu tiên của đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930 mà cậu dám gọi bằng ‘thằng’ th́ ‘láo’ quá. Cậu phải cẩn thận không là bị công-an gọi lên ‘làm việc’ rất phiền. Thôi chiều nay ḿnh đi xích-lô vui hơn v́ Cổ-Ngư cũng gần khách sạn.

Tôi ngần-ngại:

- Ngồi xích-lô coi không tiện. Trông có vẻ thiếu văn minh như ‘người bóc lột người’.

Đứa cháu bỗng trở nên hùng biện:

- Nếu ai cũng nghĩ như cậu th́ có nhiều người chết đói. Bạn bè cậu ngày xưa khi đi ‘cải-tạo’ về có người cũng phải đạp xích-lô nuôi gia-đ́nh. Họ không thể làm ǵ hơn nếu muốn sống một đời lương-thiện. Cậu biết không, mỗi ngày họ kiếm được khoảng 2 dollars là nhiều!

 

Tôi ngạc nhiên về những suy nghĩ của tuổi trẻ bây giờ. Họ thực tế, và kiến thức hầu như rộng răi hơn lớp người của thế-hệ tôi, khi chúng tôi ở vào lứa tuổi đó. Tôi thực sự hài ḷng:

- Ừ, chúng ḿnh đi xích-lô.

 

Người gác cửa khách-sạn gọi dùm 5 chiếc xe. Trinh và tôi trèo lên một chiếc. Người phu xe buột mồm:

- Vớ phải cặp béo!

Trinh đỏ mặt trong lúc tôi cười gập người, an-ủi:

- Em nên biết là người ta nói ‘béo tốt’ chứ có ai nói ‘béo xấu’ đâu.

Vợ tôi không vừa:

- Ông ấy nói là ‘cặp béo’ chứ có phải ‘người béo’ đâu. Có nghĩa là anh cũng chẳng  nhẹ nhàng ǵ!

 

Chiếc xích lô bên cạnh, chở hai mẹ con bà chị gầy c̣m, bỗng qua mặt chúng tôi cái vù. Người phu xe luôn tay bóp chuông ‘kính koong’ và quay lại nhe răng cười. Tôi nói với theo:

- Ê, đổi bớt một người không?

Anh ta lắc đầu, nhấn mạnh bàn đạp, biến mất hút. Tôi đùa người phu xe:

- Hay là bác lên ngồi với tôi, để … vợ tôi đạp dùm! Cô ấy là lực-sĩ bơi lội đấy!

Bác ta cười khà khà:

- Nói thế chứ ông bà ăn thua ǵ. Người ‘nước ngoài’ họ c̣n nặng hơn nhiều.

 

Tôi mỉm cười nhớ lại một chuyện xưa khi tôi  phục vụ trên một chiến hạm tuần dương. 

 

Tàu cặp bến Đà Nẵng vào lúc gần khuya. Hạm Trưởng Vũ rủ:

- Lên bar bà Hảo nhậu một chầu!

Hạm Phó Quí Mập cựi rung chiếc bụng phệ, biểu đồng t́nh và ra lệnh cho các sĩ-quan:

- Trừ sĩ-quan trực, tất cả ‘đi bờ’. Đứa nào không đi tao ‘uưnh’ thấy mẹ!

 

Lẽ dĩ nhiên là không ai từ chối. Một tuần biển động, có những lúc chúng tôi mệt nhoài, nằm lăn trên đài chỉ-huy, mơ tới lúc được  lên bờ, hít hơi đất thôi cũng đủ vui cuộc đời. Hơn thế nữa có Vũ làm đầu tầu, dẫn ‘d́a nhà vợ’, chắc chắn là có nhiều chuyện vui. Bar bà Hảo là nơi chúng tôi hay lui tới mỗi khi ghé bến sông Hàn và trở thành quen thân đến độ bà chủ bar bị chúng tôi gán đùa  là ‘dợ nhỏ’ của Vũ.

 

Bar đă đóng cửa. Vũ  gọi lớn:

- Cưng ơi, anh mới ‘d́a’.

Cánh cửa sằt được kéo sang một  bên, Hảo cười tươi tắn:

- Dữ thần hôn. Tưởng anh đi luôn về Sài-G̣n với ‘bả’ rồi chứ.

 

Tôi biết hai người đều đùa. Họ như hai người bạn trai thân thiết, lâu ngày gặp-gỡ, uống với nhau vài chai bia, tâm sự với nhau về những chuyện lăng nhăng của cuộc đời. Khi đă ngà ngà say Vũ thường tutoyer với Hảo, gọi Hảo bằng ‘toa’, bằng ‘mày’, thay v́ ‘cưng’. Đôi khi Hảo cũng uống chung, để rồi say, để rồi tỉ tê tâm sự về những trắc trở t́nh duyên của đời ḿnh, kéo tay áo Vũ lau nước mắt, gục đầu than:

- Buồn quá anh ơi!

Tối đó khi rời bar Vũ đă khá say:

- ‘Moa’ chưa muốn về tàu. Kiếm mấy cái xích-lô,  tụi ḿnh đi dạo mát bờ sông Hàn.

 

Tôi cũng khá say, ngả ḿnh khoan khoái cho người phu-xe cong lưng đạp, quên luôn những bài học của đàn anh trong quân trường là không nên ngồi xích-lô v́ trông ‘mất tư cách’. Chợt tôi nghe tiếng chuông ‘kính koong’ vang trong đêm vắng và tiếng hát om ṣm từ chiếc xích-lô bên cạnh. Vũ đang ra sức đạp xe c̣n người phu-xe ngồi khúm núm phía trên. Người Vũ nghiêng ngả, mông vẹo qua vẹo lại trên yên, tay trái cầm càng xe, tay phải đánh nhịp trên trời,  hát không thành tiếng, nghe như ‘là la lá …’ vang lừng.

 

Vũ dẫn đoàn xích-lô đi hết con đường ven sông, ngừng lại trước cầu tàu, trả tiền và thưởng người phu xe hậu hĩnh, cám ơn một cách lễ phép, sốc lại quần áo cho chỉnh tề trước khi bước lên cầu thang chiến-hạm, dơ tay chào lại người thủy thủ đứng gác.

 

Tôi kể cho Trinh nghe câu chuyện. Vợ tôi cười:

- Thế những người bạn anh ngày đó bây giờ ra sao?

Tôi thở dài:

- Hảo lập gia-đ́nh với một sĩ quan Hoa-Kỳ và theo chồng về nước năm 69. Nếu c̣n sống bây giờ chắc cũng đă già lắm. Quí mất trong trại ‘cải tạo’ Hoàng Liên Sơn. Vũ cũng bị đưa ra Bắc nhưng sống sót, đă đoàn tụ với gia-đ́nh bên Mỹ. Năm ngoái anh có gặp ở Orange County. Vẫn ‘tếu’ như xưa nhưng tâm sự với bạn bè là có lúc khóc nức nở khi xe lửa chở tù qua ga Hà-Nội được một người đàn bà không quen chạy theo cho một củ khoai. Vũ chỉ nh́n thấy Hà-Nội qua song cửa của toa tầu chở tù, vẫn tiếc là chưa bao giờ được biết phố-phường Hà-Nội.

- Ga Hà-Nội tức là ga Hàng-Cỏ của anh ngày trước?

- Đúng rồi. Ga gần nhà. Anh thường ra đó kiếm nút chai bia về đập thẳng ra thành những đồng ‘xèng’ để đánh đáo. Chỉ có trẻ con Hà-Nội của thế hệ anh biết ‘xèng’ là cái ǵ.

 

Chiếc xích-lô dừng lại trước một quán bánh tôm bên bờ hồ Tây.  Nhớ tới Vũ, tôi tặng người phu xe một món tiền khá lớn trước con mắt ganh tị của những người phu xe khác. Tôi phân trần:

- Tại bác ấy ‘vớ phải cặp béo’!

 

Trinh lườm tôi trong lúc anh em tôi lũ lượt vào nhà hàng. Bánh tôm hồ Tây bây giờ không ngon như tôi thường ăn lúc xưa, có lẽ khi c̣n bé tôi ít có dịp được đi ra ngoài nên khi được đi chơi, ăn ǵ cũng thấy ngon. B́nh hỏi tôi:

- Cậu thấy lại hết ‘Hà-Nội phố’ rồi chứ? Mai ḿnh về lại Sài-G̣n, c̣n chỗ nào cậu muốn ‘tham-quan’ nữa không?

Tôi trầm ngâm:

- Có lẽ cậu muốn đi lại phố Hàng Đào thêm một lần.

Trinh nh́n tôi mỉm cười:

- Bộ mê con gái hàng Đào rồi hả?

Tôi cũng cười:

- Mê từ lúc lên 10. Nhớ anh Dân không? Hồi đó anh ấy đang học năm cuối cùng tại Albert Sarraut. Người yêu của anh là chị Trâm, con gái hàng Đào. Thỉnh thoảng chị đến chơi, mặc áo dài xanh,  má trắng hồng và dịu dàng như một bà tiên trong chuyện cổ tích. Anh chỉ mong chị đến để được chị nắm tay dắt vào nhà, nghe anh Dân chơi tây ban cầm, hát ‘Tà Áo Xanh’ hoặc “Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa’. Chưa có mối t́nh nào êm-đềm và lăng mạn hơn.

- Chị Trâm có phải là chị Dân ḿnh đă gặp?

- Không. Anh Dân bị động viên, hay đúng hơn bị bắt lính, vào cuối năm 1953. Năm 54 đất nước chia đôi, gia-đ́nh chị Trâm ở lại miền Bắc,  nên hai người không gặp lại nhau thêm một lần.  Anh không bao giờ quên được ḍng nước mắt trên khuôn mặt trắng xanh khi chị Trâm đến nhà, và biết tin là anh Dân đă bị bắt. Anh chỉ nhớ loáng thoáng căn nhà phố Hàng Đào v́ có một lần anh đưa thư dùm anh Dân. Chiều qua đi trên phố ấy anh thấy thoáng buồn. Không gập được một tà áo dài chứ đừng nói là áo dài xanh. Không nghe được môt giọng nói dịu dàng, và không biết chị Trâm bây giờ ở đâu.

- Bây giờ em mới biết tại sao anh quá buồn khi nghe tin anh Dân qua đời bên Texas.

- Anh Dân, chị Trâm và những người bạn thời thơ ấu, cũng như thành phố này với những đường phố cũ, là một phần đời khó có thể chia ĺa. Với các con chúng ḿnh th́ căn nhà trên triền giốc và những đồi cỏ xanh của ‘thung lũng hoa vàng’ là những dấu ấn không phai. Bây giờ các con ở xa, chưa nhớ nhung, nhưng có một ngày nào đó các con sẽ t́m về, sẽ thiết tha tŕu mến.

B́nh pha tṛ cho không khí bớt u-buồn:

- May cho cậu đó. Nếu cậu đến đúng căn nhà, gặp một bà già da nhăn nheo, tóc cắt ngắn, mặc áo đại-cán, cổ áo đeo vài ngôi sao đỏ, trả lời cấm cẳn ‘Hỏi cái Trâm hả? Tôi đây này …’ th́ chắc cậu ù té bỏ chạy về Mỹ liền tức th́.

 

Đựng phố đă lên đèn.  Chúng tôi dời tiệm ăn, thả bộ dọc theo đường Cổ Ngư. Hồ Trúc Bạch phản chiếu những ánh đèn mầu từ những cao ốc trong thành phố. Hồ Tây mênh mông vơi những chấm sáng mù mờ. Con đường âm vang tiếng c̣i xe gắn máy, không c̣n cái vẻ hoang sơ thủa nào. Cổ Ngư đă không c̣n. Tôi biết ḿnh sẽ không bao giờ t́m lại được con đường với những tà áo dài tung bay chiều lộng gió của những người yêu nhau trên những chiếc xe đạp sóng đôi.  Tôi thở dài và chợt nghĩ tới những người tù-binh Mỹ trở lại California sau nhiều năm lưu đày.  Họ cũng không c̣n t́m thấy những vườn cam nặng trĩu trái, những rừng lê nở hoa trắng xóa vào mùa thu hay những đồi cỏ xanh mịt mùng điểm hoa vàng vào mùa xuân. Họ thấy những căn nhà đă mọc lên chen chúc, những ḍng xe cộ dài trên xa lộ ồn ào. Họ cũng sẽ buồn như tôi, và cũng như tôi, họ sẽ lặng lẽ buớc thêm một quăng đường đời.

 

Trần Quang Thiệu

April 2004